Hủy
Thế giới

Chủ nghĩa tư bản mới ở Mỹ: Sự trỗi dậy của các công ty biến thể

Thứ Hai | 28/10/2013 11:26

Sự đột biến trong cách huy động vốn và quản lý các công ty sẽ kéo theo việc thay đổi phân chia lợi nhuận.
 

Chủ nghĩa tư bản mới của Mỹ: Sự trỗi dậy của distorporation
Chủ nghĩa tư bản mới của Mỹ: Sự trỗi dậy của các công ty biến thể

. , , .

MLP (Quan hệ đối tác thương mại đại chúng) mà . , vốn hóa thị trường

phương . : các công ty through (chuyền phần lớn lợi nhuận cho cổ đông)" sẽ trả cổ tức gần hết số lợi nhuận kiếm được. Rất n lợi nhuận .

, , . .

Giá trị của tất cả các công ty MLP trên thị trường chứng khoán Mỹ là hơn1 nghìn tỷ USD. Các công ty này chiếm 9% tổng số công ty niêm yết và trong năm 2012 giátrị cổ tứcmà các công ty này trả chiếm 10%, tuynhiên số vốn chủ sở hữu chiếm tới 28%. Nhữngcon số này không phản ánh đúng mứcđộ chuyển đổi cơ cấu công ty thực sự. Hình thức sở hữu như MLPs được sử dụng cho các công ty cổ phần tư nhân lớn,do đó các công ty này đứng ở vị trí hàng đầu trong các đế chế công nghiệp vớigiá trị thực lớn hơn nhiều.Theosố liệu mới nhất từ ​Cục Thuế Liên Bang (IRS), trong năm 2008 các công ty chuyền phầnlớn lợi nhuận cho cổ đông chiếmtới 23%tổng số các công ty và 63% lợinhuậncủa tất cả các công ty gộp lại. Mộtnghiên cứu nổi tiếng củaRodney Chrisman, giáo sư luật tại Đại học Liberty, cho thấy các doanh nghiệp kiểu này chiếm tới hơn hai phần ba các công ty mới thànhlập.

Việc chuyển thành các MLP đã tác động tiêu cực tới cơ cấu công tytruyền thống, haycòn được gọi là công ty cổ phần trách nhiệm hữu hạn rất phổ biến ở thế kỷ trước. Cơ cấu mới này giúp cho các nhà đầu tư chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn với các khoản nợ công ty. Tuy vậy, quanhệ đối tác trong phân phối lợi nhuận đã ngăn cản việc tích lũy lợi nhuận. Với hìnhthức tổng công ty, lợi nhuận giữlại có thể được sử dụng để tài trợ cho các khoản đầu tư và tăng trưởng, đảm bảo chosự tồn tại lâu dài của công ty.Nếu không có các quy định này, các công ty “chuyển phần lớn lợi nhuậncho cổ đông” sẽ phải tăng cường hơn nữa với các nhà đầu tư.

Với cácMLP, định nghĩa về "tài nguyên hoặc khoáng sản tự nhiên" là linhđộng. Hiệnnay, không chỉ là thu nhập từ thanphảiđạt chuẩn,mà lợi nhuận từ việc đầu tư xe lửa chở than cũng phải đủ tiêu chuẩn. Allan Reiss, một luật sư tại Morgan Lewis, nhấnmạnh rằng một năm trước, IRS chophépkinh doanh khai thác, lưu kho, vận chuyển và tiếp thị olefin, một loại polyme tổng hợp,được công nhận đủ tiêu chuẩnthu nhập. Trong năm 2007, luật thuếvới các điều khoản về lãi suấtvà cổ tức dành riêng cho các công ty cổ phần tư nhân đã cho phép các công ty niêm yết đạichúng như Apollo,Blackstone, Carlyle, KKR và các công ty cổ phần tư nhân khác cóthể chuyển sang hình thức MLP.

Hiện nay, cácđiều kiện để trở thành một MLP dườngnhư liênquan nhiều hơn tới sựhiểu biết pháp luật và vận động hành lang hơnbất kỳ một quy định nào của pháp luật. Trong khi đó, gánh nặng về mặt luật pháp đối với các tổng công ty khiến cho nhiều người tìm kiếm loại hình công ty thay thế khi công việc kinh doanh bất đầu cấtcánh.

Một trong những loại hình công ty chuyển giao phần lớn lợi nhuận cho cổđông là hìnhthức "công ty phát triển kinhdoanh" (BDC). Các công ty huy động vốn và nợ tương tự như Là phương tiện để đầu tư vào các công ty khác, BDC được giámsát bởi một bộ phận của Ủy ban Chứngkhoán và Hối đoái (SEC ) một cách đặc biệt tỉ mỉ, và do đó,nếukhông xét đến sự tác động của các yếu tố khác, nên tránh loại hình công ty này. Nếu tính tới tác động của các yếu tốkhác thì cơ cấu công ty sẽ tùy thuộc vào đạo đức của nhà quản lý, công chúng và các nhà đầu tư.

Trong số 40 công ty BDC có cổ phiếu niêm yết côngkhai, chỉ có 7 công ty có cơ cấu vốn thực sự giống với một tổng công ty thôngthường gồm có ban lãnh đạo và đại hội cổ đông. Điểm chung của tất cả những côngty này là khả năng hoạt động giống như một ngân hàng – cho các công ty khác vayvốn – với yêu cầu các khoản phí như ngân hàng. Do các nhà đầu tư cấp vốn không được chính phủ bảo trợ giống như nhữngngười gửi tiết kiệm, BDC không bịáp lực phải đầu tư vào các khoản "rủi ro thấp" như trái phiếu chính phủ. Thay vào đó họ có thể tập trungvào việc cấp vốnchocác doanh nghiệp tư nhân, đápứng nhu cầu tín dụngmà các ngân hàng hiện nay bỏ qua.

Nhóm các công ty lớnnhất và lâu đời nhất có hình thức tổ chức tương tự là các quỹ đầu tư bất độngsản (REIT). Năm 1960, chủ sở hữu bất động sản khôn ngoan là những người muốn tiếp cận nguồn vốn của công chúngđã thành công trong việc đưa một điều khoản vào trong Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt tạo cơ hội phát triển cho các nhà đầu tư nhỏ. Do đó ban đầu các REIT được sử dụng để sở hữu nhà ở, văn phòng; hiện nay cònbao gồm sòng bạc, bệnh viện và các trạm phát sóng điện thoại di động. Giống như các công ty chuyền phần lớn lợi nhuận cho cổđông, các công tykhông thể chuyển đổi cơ cấu chophù hợp với các quyđịnh vẫn có thể nhận được mộtsố ưuđãi. Các cơ sở của Walmart và CVS,một chuỗi các cửa hàng thuốc đã được sở hữu bởi REITs, cũng như việc tờ báo New York Times đã bán các trụ sở rồi thuê lại vào năm 2009.

Andrew Morriss, khoaluật trường đại học Alabama, coisự chuyển đổi hình thức sở hữu công ty này làphản ứng của các doanh nhân trước sự thay đổivề chính sách thuế và luật củachính phủ. Cốt lõi của hành động này là những ý tưởng đượcnêu ra trong cuốn "Mô hình tổng công ty hiện đạivà tài sản tư nhân", một nghiên cứu năm 1932 mang tính bước ngoặt của Adolf Berle và Gardiner Means. Theo Berle, một thành viên của nhóm chuyên giatư vấn cho tổng thống FranklinRoosevelt,"hai phần ba tài sản công nghiệp của đất nướcđã chuyển từ sở hữu cá nhân sangsở hữu của các tập đoàn tài chính lớn làmthay đổi sâu sắc cuộc sống của chủsở hữu tàisản, cuộc sống của người lao động… dẫn đến sự cần thiếtphải có hình thái tổchức kinh tế xã hội mới.”

Ngànhcông nghiệp cuối thế kỷ 19 có nhucầu về vốn rất lớn,nên đã giải quyết vấn này bằng việc niêm yết cổ phiếu công khai trên sàn giao dịch. Điều này làm nảy sinh mộtvấn đề, mà theo Berle, các tổng công ty lớn ngày càng ăn nên làm ra sẽ dùng lợi nhuận giữ lại làm nguồn vốn và cần rất ít vốn từ chủ đầu tư. Vì vậy, trong khi cơ cấu sở hữu đemlại tính thanh khoản chocác cổ phiếu, cổ đông có thể dễ dàng chuyển quyền sở hữuthành tiền– điều này đã không đem lại cho họ quyền sở hữu thông thường, bởi vì các công tykhông cần phải duy trì sựhỗ trợvốn của họ.

Berle đã viết ,"Vì thế người quản lý trở thành ngườiquản trị quỹ tín thác không kiểm soát được”. " Khi các quỹ tín thác đã trở nên rất lớn, điều tất nhiên là các điều luật sẽ được thông qua để yêu cầu họ sử dụng tài sản của mình "ít nhiều tương ứng với kỳ vọng phát triển của nền văn minh Mỹ". Cácđiều luật bao gồm các quy địnhvề đối xử với nhân viên và khách hàng đã vượtxa những gìcác công ty muốnđưa vào các hợp đồng, cũng như cácquy tắc quyđịnh cáchhành xử của ban giám đốc với chủ sở hữu. SEC được thành lập hai năm sau khi cuốnsách của Berle và Means được xuất bản, và phản ánh cácquy tắc này.

, . .

với , , , và . trong đó từ " chỉ

. như vậy

của . đây là mức cực caotrong môi trường kinh doanh hiện nay, , ,thiếu .

khi cơ cấu công ty này ảnh hưởng lớn đến. , – hoặc % . .

Các tổ chức như quỹ đầu tư quốc gia và quỹ hỗ trợđầu tư được miễn thuế một phần hoặc hoàn toàn, việc đầu tư vào cácquỹ này mạo hiểm và phức tạp. Các quỹ này mang lại cơ hội sinhlợi rất hấp dẫn không chỉ cho nhữngngười điều hành công ty mà còn cho kế toán,luật sư, người vận động hànhlang, và những người amhiểu chính sách của nhà nước và địa phương được hưởng lợi từ các ưu đãi về thuế.

, , .

. Các công ty này đang

2
2

và do không giống như . các biện pháp . . .

, thì vẫn tốt hơn là để vốn đọng lại một chỗ dướidanh nghĩa lợi nhuận được giữ lại cơ cấu công ty mớinày có thể sẽ . , và

Nguồn The Economist


Cập nhật tin Đầu Tư, Bất Động Sản, tin nhanh kinh tế chứng khoán, kiến thức Doanh Nghiệp tại Fanpage.

Tin cùng chuyên mục

Tin nổi bật trong ngày

Tin mới