Nhựa Việt không đường lui
_88272.png)
Ở thời đỉnh cao, ngành công nghiệp nhựa của Việt Nam có hơn 4.000 doanh nghiệp hoạt động, phần lớn là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, chiếm gần 90%. Ảnh: shutterstock.com
Sự kiện Công ty Cổ phần Rạng Đông Holding (mã RDP) phá sản là hồi chuông cảnh tỉnh cho các doanh nghiệp nhựa Việt về sự cần thiết của việc tái cấu trúc mạnh mẽ, tăng cường vốn đầu tư vào công nghệ và tìm kiếm những lợi thế cạnh tranh khác biệt.
Biểu tượng sụp đổ
Rạng Đông cho biết đã nhận được Quyết định mở thủ tục phá sản từ Tòa án Nhân dân TP.HCM. Việc một tên tuổi lớn với hơn 60 năm lịch sử phải mở thủ tục phá sản đã gióng lên một hồi chuông cảnh báo về những thách thức mà ngành nhựa Việt Nam đang phải đối mặt.
Ở thời đỉnh cao, ngành công nghiệp nhựa của Việt Nam có hơn 4.000 doanh nghiệp hoạt động, phần lớn là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, chiếm gần 90%. Trong đó, các doanh nghiệp sản xuất trong ngành nhựa bao bì chiếm tỉ trọng lớn nhất, tiếp theo là các doanh nghiệp nhựa gia dụng và nhựa xây dựng. Trong thị trường này, Rạng Đông từng có lợi thế về thương hiệu và thị phần, cùng với các tên tuổi như Nhựa Tiền Phong, Nhựa Bình Minh, Đại Đồng Tiến, Nhựa Duy Tân, Nhựa Khôi Nguyên, Nhựa Chợ Lớn… Trong đó, Rạng Đông nổi trội với sản phẩm nhựa nhiệt dẻo PVC và tấm lợp chiếm hơn 50% thị phần trong nước.
Nhưng sự xuất hiện của các đối thủ mới, đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài và các công ty nội địa trẻ, đã làm thay đổi cuộc chơi. Nhiều doanh nghiệp nhựa Việt Nam, bao gồm cả Rạng Đông, đã chậm chạp trong việc đầu tư vào công nghệ sản xuất hiện đại. Máy móc lạc hậu, quy trình sản xuất cũ kỹ dẫn đến hiệu suất thấp, tiêu thụ nhiều năng lượng và chất lượng sản phẩm không đồng đều. Trong khi đó, các đối thủ cạnh tranh đã nhanh chóng áp dụng công nghệ tự động hóa, robot và các giải pháp sản xuất thông minh để tối ưu hóa chi phí và nâng cao chất lượng. Sự chênh lệch về công nghệ này khiến sản phẩm của nhiều doanh nghiệp Việt Nam thiếu sức cạnh tranh, nhất là khi phải đối đầu với hàng nhập khẩu giá rẻ hoặc các sản phẩm cao cấp từ nước ngoài.
![]() |
Sự sụp đổ của một tên tuổi lớn như Rạng Đông không chỉ đến từ sự cạnh tranh của doanh nghiệp nội địa mà còn bởi sức ép lớn từ các tập đoàn nước ngoài, đặc biệt là các nhà đầu tư đến từ Thái Lan. Trong những năm gần đây, các tập đoàn Thái Lan đã tích cực mở rộng đầu tư vào thị trường Việt Nam thông qua mua bán - sáp nhập (M&A).
Cách đây khoảng 10 năm, lãnh đạo Hội Cao su - Nhựa TP.HCM kể rằng gần như tháng nào cũng đón tiếp các nhà đầu tư Thái đến hỏi mua doanh nghiệp. Trong các cuộc đàm phán, họ trả giá rất cao và ngay thời điểm đó đã mua lại được không ít doanh nghiệp tiềm năng. Từ đó đến nay, các tập đoàn lớn của Thái Lan, đặc biệt là Siam Cement Group (SCG) và Indorama Ventures gần như đã có đủ “bộ sưu tập” hầu hết các doanh nghiệp lớn của ngành nhựa Việt Nam. Ngoài Nhựa Duy Tân, một số thương vụ tiêu biểu của người Thái gồm Nawaplastic Industries (công ty con của SCG) đã nắm giữ lượng lớn cổ phần tại 2 doanh nghiệp ống nhựa là Nhựa Bình Minh (mã BMP) và Nhựa Thiếu niên Tiền Phong (mã NTP) kiểm soát thị phần đáng kể trong lĩnh vực ống nhựa xây dựng. SCG cũng đã mua lại cổ phần lớn tại 2 công ty bao bì nhựa là Bao bì Tín Thành (Batico) và Bao bì Biên Hòa (Sovi), mở rộng sự hiện diện trong mảng bao bì. Hay Indorama Ventures đã mua lại 100% cổ phần của Nhựa Ngọc Nghĩa, một doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực sản xuất bao bì nhựa...
Có thể thấy, M&A là cách nhanh và hiệu quả để người Thái thâm nhập thị trường, tận dụng cơ sở hạ tầng, thương hiệu và mạng lưới phân phối sẵn có của các doanh nghiệp Việt Nam. Sự xuất hiện của các tập đoàn lớn đến từ Thái Lan đã tạo ra một cuộc cạnh tranh không cân sức. Với tiềm lực tài chính dồi dào, họ có khả năng đầu tư mạnh vào công nghệ sản xuất hiện đại, tối ưu hóa quy trình và đưa ra các sản phẩm có chất lượng cao với giá cạnh tranh.
Ngược lại, các doanh nghiệp nhựa Việt Nam, trong đó có Rạng Đông, thường gặp khó khăn về vốn, công nghệ lạc hậu và quy mô sản xuất nhỏ lẻ, khó cạnh tranh về giá lẫn chất lượng. Sự thâm nhập của nhà đầu tư Thái Lan cũng làm thay đổi cục diện thị trường. Họ không chỉ sản xuất mà còn kiểm soát cả chuỗi cung ứng, từ nguyên liệu đầu vào đến sản phẩm đầu ra, tạo ra một hệ sinh thái khép kín và bền vững hơn.
![]() |
Dây chuyền sản xuất của Công ty Cổ phần Rạng Đông Holding. Ảnh: TL |
Thông qua việc sở hữu các thương hiệu mạnh, có sẵn mạng lưới phân phối, sản phẩm nhựa Thái Lan dễ dàng len lỏi vào từng ngõ ngách thị trường, kết hợp với sự hiện diện của các chuỗi bán lẻ lớn của Thái Lan tại Việt Nam (như Central Retail Group với chuỗi GO!, Tops Market...), tạo ra một “hệ sinh thái Thái” vững chắc. Điều này khiến các doanh nghiệp Việt Nam càng khó khăn hơn trong việc tìm kiếm chỗ đứng, đặc biệt trong phân khúc nhựa tiêu dùng và bao bì.
Chưa kể, theo ông Nguyễn Quốc Anh, Chủ tịch Hội Cao su - Nhựa TP.HCM, doanh nghiệp nhựa trong ngành giày, dép và hàng tiêu dùng phải cạnh tranh khốc liệt với các đối thủ Trung Quốc thông qua các nền tảng thương mại điện tử. Sự tiện lợi của việc giao hàng tận nơi và giá thấp hơn mà những nền tảng thương mại điện tử Trung Quốc cung cấp đã khiến các nhà sản xuất Việt Nam khó theo kịp.
Ngành nhựa Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, chủ yếu từ các quốc gia như Ả Rập Saudi, Hàn Quốc, Singapore và Trung Quốc. Giá nguyên liệu hạt nhựa lại thường xuyên biến động theo giá dầu mỏ thế giới. Sự phụ thuộc này khiến các doanh nghiệp phải đối mặt với rủi ro lớn khi giá tăng cao, ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí sản xuất và lợi nhuận.
Đối với Rạng Đông và nhiều doanh nghiệp khác, việc không chủ động được nguồn cung và giá cả nguyên liệu đã gây ra những khó khăn lớn về tài chính, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất ổn.
Tình cảnh này khiến Rạng Đông từ đỉnh cao lợi nhuận đã lần đầu thua lỗ vào năm 2017 và hoạt động trồi sụt những năm sau đó. Đỉnh điểm là năm 2023, sau vụ thua kiện Tập đoàn Sojitz (Nhật) về hợp đồng mua bán cổ phần và phải bồi thường gần 157 tỉ đồng, Rạng Đông đã lâm vào khủng hoảng tài chính.
“Thái Lan hóa” ngành nhựa
Trong khi đó, các nhà đầu tư Thái Lan đã gần như nắm trọn chuỗi giá trị ngành nhựa nhằm tạo ra một hệ sinh thái khép kín và tối ưu hóa lợi nhuận. Ví dụ, SCG đã sở hữu công ty sản xuất hạt nhựa và sau đó mua lại các công ty sản xuất sản phẩm nhựa để tối ưu hóa quy trình.
![]() |
Ở thời đỉnh cao, ngành công nghiệp nhựa của Việt Nam có hơn 4.000 doanh nghiệp hoạt động, phần lớn là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ảnh: TL |
Mới đây, SCG tái khởi động Tổ hợp hóa dầu Long Sơn (LSP) vào cuối tháng 8 do giá dầu thô giảm, giúp cải thiện hiệu quả vận hành. Đây cũng là dự án hóa dầu lớn nhất Việt Nam với tổng vốn đầu tư lên tới 5,4 tỉ USD, trở thành nguồn cung hạt nhựa (nguyên liệu đầu vào) quan trọng, giúp SCG khép kín chuỗi cung ứng. Tổ hợp có tổng công suất thiết kế 1,4 triệu tấn hạt nhựa olefin mỗi năm, sản xuất nhiều sản phẩm hóa dầu đa dạng…
Ông Thammasak Sethaudom, Chủ tịch kiêm Giám đốc Điều hành SCG, đánh giá ngành hóa dầu có dấu hiệu phục hồi trở lại. “Mức chênh lệch giá thành của các sản phẩm hóa dầu cũng bắt đầu cải thiện nhờ chi phí dầu thô giảm”, ông cho biết.
Cần biết rằng Việt Nam là thị trường lớn thứ 2 của SCG tại ASEAN (sau Thái Lan). Doanh thu từ bán hàng của SCG tại Việt Nam trong quý I/2025 đạt hơn 7.770 tỉ đồng; tổng tài sản của SCG tại Việt Nam tính đến cuối năm 2024 đạt gần 180.000 tỉ đồng (bao gồm cả dự án hóa dầu). Chiến lược của Thái Lan không chỉ dừng lại ở việc kinh doanh mà là thâm nhập sâu vào chuỗi giá trị ngành nhựa Việt Nam, từ khâu nguyên liệu đầu vào (Tổ hợp hóa dầu Long Sơn) đến khâu sản xuất thành phẩm (Nhựa Bình Minh, Nhựa Duy Tân, Batico, Sovi…), qua đó giành quyền kiểm soát thị phần cốt lõi và định hình lại cục diện ngành nhựa nội địa.
![]() |
Ngoài ra, Việt Nam có vị trí chiến lược trong khu vực ASEAN, tạo điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất và phân phối sản phẩm không chỉ trong nước mà còn xuất khẩu sang những thị trường khác. Các chiến lược này đang biến nhiều doanh nghiệp nhựa của Việt Nam trở thành cỗ máy in tiền trong tay người Thái. Nhà đầu tư Thái tiếp tục bỏ túi hàng trăm tỉ đồng mỗi năm nhờ Nhựa Bình Minh. Doanh thu của Nhựa Bình Minh năm 2025 được dự báo có thể đạt 5.500 tỉ đồng; lãi ròng được kỳ vọng tiếp tục neo ở mức cao từ 1.000-1.100 tỉ đồng trong giai đoạn 2024-2026.
Ông Chaowalit Treejak, Phó Chủ tịch Hội đồng Quản trị Nhựa Bình Minh, cho biết với đà tăng trưởng hiện tại, Công ty kỳ vọng sẽ có thêm nhiều tín hiệu tích cực, nhất là khi dòng vốn FDI tiếp tục tăng và đổ vào các lĩnh vực sản xuất và xây dựng.
Bối cảnh hiện nay cho thấy, thị trường nhựa trong nước đang hình thành 2 khu vực rõ nét: nhóm doanh nghiệp lớn theo chuỗi giá trị tích hợp toàn cầu (vốn ngoại hoặc có cổ đông chiến lược nước ngoài) và nhóm sản xuất nhỏ phục vụ thị trường ngách hoặc địa phương.
Lợi nhuận của ngành nhựa cũng có sự khác biệt rõ rệt giữa các phân khúc sản phẩm. Nhựa xây dựng có biên lợi nhuận ổn định hơn nhờ thị trường tiêu thụ nội địa lớn và sự phục hồi của ngành xây dựng. Các doanh nghiệp đầu ngành như Nhựa Bình Minh và Nhựa Tiền Phong thường duy trì được vị thế và lợi nhuận tốt. Nhựa bao bì là phân khúc chiếm tỉ trọng lớn nhất về sản lượng và xuất khẩu. Lợi nhuận của phân khúc này phụ thuộc nhiều vào giá nguyên liệu đầu vào và nhu cầu xuất khẩu. Mặt hàng nhựa gia dụng cạnh tranh rất gay gắt cả về giá và mẫu mã. Nhựa kỹ thuật cao là phân khúc có tiềm năng tăng trưởng và biên lợi nhuận cao nhất. Tuy nhiên, nó đòi hỏi các doanh nghiệp phải đầu tư mạnh vào công nghệ, nghiên cứu và phát triển để sản xuất sản phẩm phục vụ các ngành công nghiệp như ô tô, điện tử, y tế.
![]() |
Theo ông Đinh Đức Thắng, Chủ tịch Hiệp hội Nhựa Việt Nam (VPA), sự phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu không chỉ đẩy cao chi phí đầu vào của doanh nghiệp mà còn khiến ngành nhựa dễ bị tổn thương trước biến động giá cả toàn cầu. Đặc biệt, việc thiếu hụt nguyên liệu còn ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong bối cảnh xuất khẩu ngày càng mở rộng. Riêng quý I/2025, cả nước đã nhập khẩu 2,28 triệu tấn chất dẻo nguyên liệu (hay còn gọi là nhựa hoặc polymer) với trị giá 3,02 tỉ USD, tăng 25,2% về lượng và tăng 20,8% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, Trung Quốc tiếp tục là thị trường lớn nhất cung cấp nguyên liệu nhựa cho Việt Nam, chiếm 29,2% thị phần.
Sức ép này đã khiến một đại gia ngành nhựa là Nhựa Ngọc Nghĩa, từ lâu là đối tác cung cấp bao bì nhựa cho nhiều tên tuổi lớn như Unilever, Coca-Cola, Pepsi, Vinamilk..., cuối cùng phải “bán mình” cho chi nhánh của Indorama Ventures. Cũng như Nhựa Ngọc Nghĩa, không ít doanh nghiệp nhựa Việt Nam không vượt qua nổi khó khăn mà quyết định bán sớm cho nhà đầu tư nước ngoài. Tình trạng này được dự báo tiếp tục diễn ra mạnh mẽ hơn khi cạnh tranh khốc liệt hơn.
![]() |
“Các nhà đầu tư ngoại sẵn sàng bỏ ra mức giá cao để mua lại doanh nghiệp Việt khi thấy tiềm năng tiêu thụ lớn của thị trường nội địa, cùng với dòng vốn FDI vào ngành công nghiệp ngày càng tăng cao, góp phần vào chuỗi cung ứng toàn cầu”, ông Nguyễn Văn Dòng, Chủ tịch Hiệp hội In Việt Nam (VPA), cho biết.
Thay đổi hay biến mất?
Theo VPA, ngành nhựa đã đạt quy mô doanh thu trên 31 tỉ USD với trên 4.000 doanh nghiệp, xuất khẩu đạt 6,57 tỉ USD. Thị trường nhựa của Việt Nam dự kiến tăng từ 10,92 triệu tấn năm 2024 lên 16,36 triệu tấn vào năm 2029, với tốc độ tăng trưởng kép hằng năm (CAGR) đạt 8,44%.
Với dân số đông và sức mua tăng, nhu cầu sử dụng sản phẩm nhựa trong nước vẫn còn lớn. Bên cạnh đó, nhờ các hiệp định thương mại tự do, cơ hội xuất khẩu sản phẩm nhựa sang các thị trường lớn như Mỹ, Nhật, EU vẫn rất tiềm năng. Sự sụp đổ của Rạng Đông là một bài học đắt giá, nhưng cũng là cơ hội để các doanh nghiệp khác nhìn lại và tìm ra hướng đi mới trong một thị trường còn nhiều tiềm năng tăng trưởng.
Việc các thương hiệu nhựa hàng đầu như Nhựa Duy Tân, Nhựa Bình Minh đổi chủ hay cú ngã ngựa của Rạng Đông khiến ngành nhựa Việt mất đi các đầu tàu dẫn dắt thị trường, làm giảm tính tự chủ và khả năng cạnh tranh của ngành. Tuy nhiên, Tiến sĩ Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách Tài chính, Tiền tệ Quốc gia, chỉ ra rằng Việt Nam vẫn còn nhiều dư địa để phát triển ngành nhựa vì mức tiêu thụ bình quân đầu người còn thấp so với thế giới. Hơn nữa, nhu cầu thế giới đối với các sản phẩm nhựa tái chế và thân thiện với môi trường đang mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
![]() |
Việt Nam đang nổi lên như một trung tâm sản xuất nhựa trong khu vực. Ngành công nghiệp nhựa nội địa sẽ hưởng lợi đáng kể từ xu hướng toàn cầu và trở thành một nhân tố quan trọng trong nỗ lực cung cấp các giải pháp mới cho ngành sản xuất nhựa thân thiện với môi trường cũng như đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật ngày càng cao từ các thị trường xuất khẩu như EU, Nhật, Mỹ.
Để vượt qua khó khăn, nhiều hội thảo của ngành nhựa đã chỉ ra chiến lược sống còn gồm đầu tư vào công nghệ, hiện đại hóa máy móc; tìm kiếm nguồn nguyên liệu thay thế, nghiên cứu và phát triển các loại nhựa sinh học, nhựa tái chế để giảm sự phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu; chuyển đổi mô hình kinh doanh, tập trung vào các sản phẩm có giá trị cao, thân thiện với môi trường và đáp ứng nhu cầu của thị trường toàn cầu.
Ông Hoàng Đức Vượng, Phó Chủ tịch VPA, cho rằng để xây dựng một ngành công nghiệp nhựa phát triển bền vững, Việt Nam cần tập trung phát triển thị trường tái chế. Đặc biệt, khi thế giới ngày càng quan tâm đến vấn đề môi trường và giảm thiểu rác thải nhựa, các chính sách về môi trường trở nên nghiêm ngặt hơn.
Chính vì vậy, sau khi thoái vốn cho SCG Packaging của Thái Lan, Ban lãnh đạo Công ty Nhựa Duy Tân quyết định phát triển kinh doanh mảng nhựa tái chế và nhựa kỹ thuật cao. Sau 2 năm nghiên cứu công nghệ, nhà máy DuyTan Recycling được xây dựng vào năm 2019 tại Long An, với công suất thiết kế đạt 100.000 tấn nhựa/năm khi vận hành tối đa, tương đương 7 tỉ chai nhựa tái sinh.
“7 năm trước, không ai biết nhựa tái chế có thể bọc hàng thực phẩm như hiện nay. Nếu chúng tôi không làm thì ai sẽ làm?”, ông Lê Anh, Giám đốc Phát triển Bền vững của DuyTan Recycling, cho biết. DuyTan Recycling đã thuyết phục được các thương hiệu lớn như Unilever, Coca-Cola, Suntory PepsiCo, Nestlé, Lavie... sử dụng nhựa tái chế cao cấp của họ.
![]() |
Để xây dựng một ngành công nghiệp nhựa phát triển bền vững, Việt Nam cần tập trung phát triển thị trường tái chế. Ảnh: TL |
DuyTan Recycling cho thấy một cơ hội khác của ngành công nghiệp nhựa Việt Nam. Tại Việt Nam, tỉ lệ nhựa được tái chế mới chỉ ở mức 33%, trong khi quốc gia có tỉ lệ tái chế cao nhất thế giới là Na Uy lên tới 98%. Nếu quy đổi ra giá trị, Việt Nam có tới 2,62 triệu tấn nhựa bị thải bỏ mỗi năm, tức là không được tái chế, dẫn đến mất giá trị vật liệu của nhựa, tương đương từ 2,2-2,9 tỉ USD/năm. Các tập đoàn đa quốc gia đặt mục tiêu sử dụng ít nhất 50% nhựa tái chế trong bao bì vào năm 2030 nên nhu cầu về nguồn cung đạt chuẩn ngày càng tăng.
Theo đại diện của DuyTan Recycling, chính sách trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) có hiệu lực từ đầu năm 2024 mới chỉ dừng ở việc yêu cầu doanh nghiệp có trách nhiệm thu gom bao bì. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa có tiêu chuẩn bắt buộc về tỉ lệ tái chế trong sản phẩm hay quy định cụ thể về nhựa tái chế dùng cho thực phẩm. Vì vậy, doanh nghiệp này đề xuất Nhà nước sớm ban hành những tiêu chuẩn này, đồng thời có cơ chế về nhãn sinh thái. Một khung chính sách rõ ràng sẽ tạo ra một sân chơi công bằng và thúc đẩy toàn ngành cùng phát triển.
Ông Nguyễn Quốc Anh, Chủ tịch Hội Cao su - Nhựa TP.HCM, đánh giá chính sách khấu trừ thuế thu nhập doanh nghiệp cho các chi phí xanh sẽ khuyến khích doanh nghiệp tăng cường đầu tư vào các dự án sử dụng công nghệ tiên tiến, tiêu hao ít nhiên liệu, các dự án sử dụng năng lượng tái tạo... Khi có những biện pháp ưu đãi về thuế phù hợp, các dự án này sẽ có được khả năng cạnh tranh cao hơn.
Cập nhật tin Đầu Tư, Bất Động Sản, tin nhanh kinh tế chứng khoán, kiến thức Doanh Nghiệp tại Fanpage.
Theo dõi Nhịp Cầu Đầu Tư

Tin cùng chuyên mục
-
Diễm Trang
-
Huy Vũ - Bảo Hân - Kim Dung
-
Thanh Hằng
-
Kim Dung
-
Công Sang - Hằng Nguyễn
-
Công Sang