Hủy
Chuyên đề

Đòn bẩy "2 con số vàng" của tăng trưởng

Kim Dung Thứ Hai | 10/11/2025 07:30

Những doanh nghiệp như Masan hay Imexpharm đang góp phần thay đổi cuộc chơi trong mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Ảnh: shutterstock.com

 
 
Mục tiêu tăng trưởng 2 con số đẩy nhanh nỗ lực tái cấu trúc nền kinh tế khi các động lực cũ không còn đủ sức mạnh.

Trong chiến lược “go global” (vươn ra thế giới), một yếu tố quan trọng mà Masan Group chuẩn bị từ nhiều năm qua là đầu tư mạnh mẽ vào Trung tâm R&D thế hệ mới tại Bình Dương để phát triển sản phẩm đạt tiêu chuẩn an toàn, sức khỏe toàn cầu với công nghệ và máy móc hiện đại bậc nhất. Khoản đầu tư này nhằm xây dựng một trong những trung tâm R&D lớn nhất Việt Nam về thực phẩm và đồ uống, giúp Masan gia tăng sức cạnh tranh trên thị trường thế giới.

Imexpharm cũng dành đến 5% doanh thu mỗi năm đầu tư sâu vào R&D và đang trở thành doanh nghiệp nội địa dẫn đầu với năng lực sản xuất đạt chuẩn EU-GMP, có các thị trường quốc tế với nhóm sản phẩm chiến lược như sinh dược phẩm, thuốc tương đương sinh học, dược liệu công nghệ cao...

Những doanh nghiệp như Masan hay Imexpharm đang góp phần thay đổi cuộc chơi trong mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Bởi vì giai đoạn 2026-2030 phải là bước ngoặt để Việt Nam chuyển sang mô hình tăng trưởng mới. Theo đó, Việt Nam đang đứng trước mục tiêu tăng trưởng kinh tế đầy tham vọng, hướng tới đạt mức tăng trưởng GDP 2 con số trong giai đoạn này. Để đạt được mục tiêu trên, các chính sách tiền tệ và tài khóa đang được ưu tiên để kích thích nội lực. Tuy nhiên, nền kinh tế đang đối mặt với yêu cầu tái cấu trúc căn cơ nhằm giảm sự phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài và gia tăng giá trị nội tại.

Ảnh: shutterstock.com
Giai đoạn 2026-2030 phải là bước ngoặt để Việt Nam chuyển sang mô hình tăng trưởng mới. Ảnh: shutterstock.com

Bước ngoặt tăng trưởng mới 

Nhìn lại 40 năm đổi mới, giai đoạn 2021-2025, tăng trưởng GDP bình quân hơn 6,1% mỗi năm, quy mô kinh tế hơn 500 tỉ USD, thu nhập bình quân đầu người khoảng 5.000 USD, đưa Việt Nam vào nhóm nước có thu nhập trung bình cao. Tuy vậy, tăng trưởng của Việt Nam vẫn được đánh giá là dưới tiềm năng, năng lực công nghệ thấp, khoa học - đổi mới sáng tạo chưa thành động lực chính. Để tạo ra bước ngoặt sang mô hình tăng trưởng mới, Việt Nam cần giải quyết được những nút thắt này. 

“Đổi mới mô hình tăng trưởng để tăng cường nội lực và giảm thiểu các rủi ro từ bên ngoài là điều cấp thiết trong bối cảnh hiện nay”, Phó Giáo sư - Tiến sĩ Phạm Thế Anh, Đại học Kinh tế Quốc Dân, nhấn mạnh. Nếu không có những đột phá chính sách, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có thể vẫn sẽ tiếp tục phụ thuộc chủ yếu vào xuất khẩu và đầu tư nước ngoài, tốc độ tăng trưởng chỉ ở mức vừa phải và khó thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình.

Ông Trần Đức Anh, Giám đốc Vĩ mô và Chiến lược thị trường, Công ty Chứng khoán KB Việt Nam (KBSV), cho rằng, tăng trưởng của Việt Nam phụ thuộc khá nhiều vào FDI và xuất khẩu, nhất là lĩnh vực chế biến - chế tạo. Muốn cải thiện chất lượng tăng trưởng, Việt Nam phải tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, đảm nhận các khâu mang lại lợi nhuận cao hơn. Việc thúc đẩy kinh tế số, bán dẫn, trí tuệ nhân tạo (A.I) hay công nghệ cao chính là hướng đi cần thiết. Tuy nhiên, đây là bài toán phức tạp và cần nhiều thời gian với định hướng rõ ràng và bắt đầu có những bước đi cụ thể.

Đồng quan điểm, ông Nguyễn Thế Minh, Giám đốc Khối Nghiên cứu và Phát triển Khách hàng cá nhân, Công ty Chứng khoán Yuanta Việt Nam, đánh giá, trong tương lai, kinh tế Việt Nam vẫn phải phụ thuộc vào FDI và xuất khẩu. Vấn đề là làm sao vừa tiếp tục thu hút được dòng vốn FDI, vừa duy trì tăng trưởng xuất khẩu, đồng thời đảm bảo được nguồn việc làm và ổn định xã hội. 

Việt Nam hiện nằm trong nhóm các quốc gia sản xuất nông, lâm, thủy sản hàng đầu thế giới, với sản phẩm xuất khẩu tới hơn 185 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có các thị trường khó tính như Mỹ, EU, Nhật, Hàn Quốc và Trung Quốc. Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng Việt Nam có thể thu hút thêm hàng chục tỉ USD mỗi năm nếu đẩy mạnh chế biến sâu, thay vì chỉ dừng ở xuất khẩu nông sản thô.

Chẳng hạn, vào những ngày cuối năm 2024, cộng đồng từng xôn xao trước thông tin Trung Quốc thu mua cau tươi giá rẻ từ Việt Nam để chế biến thành kẹo, rồi đưa ngược trở lại thị trường trong nước với giá bán lên tới hàng triệu đồng mỗi kg. Câu chuyện này cho thấy một thực tế, Việt Nam vẫn chủ yếu xuất thô, trong khi khâu chế biến, nơi tạo ra giá trị cao nhất, lại nằm trong tay nước khác.

Tại Việt Nam, nếu những sản phẩm như gạo, cà phê hay hạt điều được đầu tư chế biến sâu, phát triển thành các dòng sản phẩm cao cấp, giá trị kinh tế của ngành nông sản có thể tăng thêm hàng chục tỉ USD mỗi năm. Những gói mì, gia vị của Masan hay viên thuốc của Imexpharm cũng đi theo công thức như vậy, khi nâng cao hàm lượng R&D, đồng thời gia tăng giá trị cho sản phẩm. 

Dữ liệu từ KBSV cho thấy, Việt Nam có tiềm năng lớn trong xuất khẩu, nhưng giá trị gia tăng nội địa còn hạn chế ở các ngành công nghệ cao, khiến nền kinh tế vẫn phụ thuộc vào nhập khẩu đầu vào. Ví dụ như các ngành đồ nội thất, giày dép, may mặc, cơ khí có tỉ lệ giá trị gia tăng nội địa cao (47-60%). Ngược lại, những ngành điện tử và thiết bị y tế có giá trị gia tăng thấp, chỉ khoảng 13-31%, trong khi đây lại là những ngành đóng góp lớn vào kim ngạch xuất khẩu mỗi năm. 

Nhìn ở góc độ ngành, ông Lê Tiến Trường, Chủ tịch Tập đoàn Dệt May Việt Nam (Vinatex), chia sẻ, quy mô xuất khẩu của ngành dệt may của Việt Nam đã đạt hơn 45 tỉ USD, nếu kỳ vọng tăng trưởng 10% mỗi năm đến năm 2030, con số xuất khẩu cần đạt khoảng 80 tỉ USD. “Đây là điều bất khả thi nếu chỉ phát triển theo chiều rộng, trong khi tổng cầu thế giới vẫn chưa phục hồi sau đại dịch”, ông Trường nói. Vì vậy, thay vì chạy theo tăng trưởng số lượng, Chính phủ cần có thêm chính sách khuyến khích đầu tư vào công nghệ, thúc đẩy năng suất và đặc biệt là chuyển đổi xanh.

Việt Nam cần một mô hình tăng trưởng cân đối hơn, tỉ trọng cao hơn cho nội cầu, gồm đầu tư công và tiêu dùng dân cư. Dự báo cho thấy thị trường nội địa sẽ tăng trưởng trên 12% trong năm nay, là điểm tựa rất vững chắc để thúc đẩy tăng trưởng GDP. Do đó, trong tương lai gần, tăng trưởng của Việt Nam vẫn dựa nhiều vào xuất khẩu và đầu tư, nhưng để tăng trưởng ổn định và bền vững thì phải dựa vào thị trường nội địa. 

Xét về phía cầu, một trong những yếu tố then chốt nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hướng tới mục tiêu tham vọng như mức tăng GDP 8% và cao hơn trong những năm tới là tăng cường kích cầu tiêu dùng. Để làm được điều đó, Chính phủ đã và đang triển khai nhiều giải pháp như điều chỉnh tăng lương cơ bản, giảm thuế VAT và giảm thuế thu nhập cá nhân. 

Điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh của thuế thu nhập cá nhân cũng là thông tin đáng quan tâm. Phương án này dự kiến làm giảm thu ngân sách nhà nước khoảng 21.000 tỉ đồng/năm. Trả lời NCĐT, ông Đức Anh của KBSV nhận định: “Kích cầu thông qua giảm thuế tiêu dùng cũng chỉ là một trong nhiều giải pháp. Chúng ta vẫn cần thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp khác, cả về tài khóa lẫn tiền tệ thì mới có thể thực sự đạt được mức tăng trưởng cao”. 

Ở góc nhìn khác, ông Nguyễn Thế Minh của Yuanta Việt Nam cho rằng, xét trong bối cảnh mục tiêu tăng trưởng của Việt Nam ở mức 2 con số trong giai đoạn 2026-2030, việc tăng thu nhập khả dụng cho người dân là một cách để hỗ trợ mục tiêu đó. Khi người dân có thêm thu nhập, họ có điều kiện chi tiêu nhiều hơn, qua đó kích thích tổng cầu và đóng góp vào tăng trưởng. 

Bên cạnh đó, việc tăng thu nhập khả dụng của người dân sẽ làm gia tăng khả năng dịch chuyển dòng tiền vào các kênh đầu tư. Thay vì chỉ lựa chọn các kênh truyền thống hoặc an toàn như tiền gửi, khi có nguồn tiền nhàn rỗi nhiều hơn, nhà đầu tư sẽ có xu hướng phân bổ một phần vào các kênh đầu tư khác. 

Tốc độ vs bền vững

Giai đoạn 2026-2030 Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng GDP 2 con số và hướng đến GDP bình quân đầu người khoảng 8.500 USD vào năm 2030. Mô hình tăng trưởng mới 2 con số có ý nghĩa chiến lược quan trọng đối với Việt Nam, nhằm mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045. Nếu đạt được mục tiêu này, quy mô nền kinh tế sẽ tăng gấp 4 lần, đồng thời thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình thông qua việc tập trung vào năng suất, đổi mới sáng tạo và phát triển các vùng kinh tế động lực. 

“Chúng tôi cho rằng chương trình cải cách 2.0, bao gồm các biện pháp cải thiện môi trường đầu tư, đơn giản hóa thủ tục hành chính và nâng cao hiệu quả khu vực công có thể gia tăng khoảng 2 điểm phần trăm trong tăng trưởng GDP của Việt Nam. Đây sẽ là nền tảng để Việt Nam duy trì đà tăng trưởng cao trong trung và dài hạn”, bà Vũ Ngọc Linh, Giám đốc Phân tích và Nghiên cứu thị trường VinaCapital, chia sẻ. 

Theo bà Linh, năm 2025 tăng trưởng GDP đạt mức ấn tượng, chủ yếu nhờ 2 động lực là xuất khẩu và sự phục hồi của tiêu dùng trong nước. Trong đó, xuất khẩu sang Mỹ duy trì mức tăng cao hơn kỳ vọng, bất chấp các yếu tố bất định về chính sách thương mại.

Ảnh: shutterstock.com
Mô hình tăng trưởng mới 2 con số có ý nghĩa chiến lược quan trọng đối với Việt Nam, nhằm mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045. Ảnh: shutterstock.com

Năm 2026, chuyên gia của VinaCapital dự báo tăng trưởng GDP đạt khoảng 8%, một mức cân bằng hơn, khi các động lực tăng trưởng trở lại trạng thái bình thường. Xuất khẩu sang Mỹ dự kiến tăng 8%, phản ánh sự điều chỉnh tự nhiên sau năm 2025 tăng cao đột biến. Tăng trưởng bán lẻ thực (đã loại trừ yếu tố lạm phát) ước đạt khoảng 8%, cho thấy động lực tiêu dùng nội địa thực sự hồi phục.

Ở góc độ điều hành, chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa là 2 công cụ chính để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Theo ông Đức Anh của KBSV, đối với chính sách tiền tệ, trong khoảng 2-3 năm trở lại đây, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng, giữ mặt bằng lãi suất thấp và thúc đẩy tăng trưởng tín dụng để hỗ trợ phát triển kinh tế. Tuy nhiên, chính sách tiền tệ tùy vào từng thời điểm sẽ có những rào cản nhất định. 

“Nếu chính sách tiền tệ nới lỏng quá mức có thể ảnh hưởng đến cân đối vĩ mô, cụ thể là lạm phát và tỉ giá. Gần đây đã có những thời điểm áp lực tỉ giá căng thẳng, buộc các nhà điều hành phải áp dụng những biện pháp thận trọng hơn. Điều đó đồng nghĩa với việc chính sách tiền tệ hiện nay gần như đã đạt đến giới hạn. Việc tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất là rất khó và khả năng lãi suất sẽ duy trì ở mức thấp như hiện nay hoặc tăng nhẹ trong thời gian tới”, ông Đức Anh chia sẻ. 

Tương tự, việc nới tăng trưởng tín dụng lên trên 16%, thậm chí 20% sẽ là yếu tố thúc đẩy tăng trưởng, nhưng nếu duy trì liên tục nhiều năm, cung tiền tăng nhanh có thể gây áp lực lên lạm phát và tỉ giá. Vì vậy, chính sách tiền tệ vẫn có thể nới lỏng, nhưng cần đi kèm với sự quan sát chặt chẽ và nếu có dấu hiệu mất kiểm soát, phải điều chỉnh theo hướng thận trọng. 

Đối với chính sách tài khóa, chuyên gia của KBSV cho rằng vẫn còn nhiều dư địa. Kế hoạch giải ngân đầu tư công hằng năm của Việt Nam thường rất tham vọng, nhưng thực tế chỉ giải ngân được khoảng 80-90%. Nghĩa là điểm nghẽn của đầu tư công không nằm ở vốn, mà nằm ở quy trình, thủ tục hay vướng mắc pháp lý, dân sự... Trong khi đó, xét về vốn, dư địa để giải ngân của chúng ta vẫn còn rất lớn.

“Tỉ lệ nợ công trên GDP hiện khoảng 35%, mức rất thấp so với trần 50%, trong khi giai đoạn trước năm 2016, mức trần từng là 60%. Con số hiện nay thấp hơn đáng kể so với nhiều quốc gia như Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines, Trung Quốc hay Nhật. Do đó, dư địa tài khóa của Việt Nam vẫn rộng và chúng ta không phải quá lo về áp lực trả nợ trong tương lai. Vấn đề là phải có cơ chế thông thoáng hơn để đẩy nhanh tiến độ giải ngân đầu tư công. Đây sẽ là động lực chính hỗ trợ tăng trưởng trong thời gian tới”, ông Đức Anh phân tích. 

Bài toán 3 trục tăng trưởng

Mô hình thành công của Việt Nam trong 30 năm qua đột ngột đứng trước những thách thức lớn về thay đổi trật tự kinh tế, thương mại toàn cầu... Đại diện của KBSV cũng cho rằng nếu muốn duy trì tăng trưởng cao trong nhiều năm liên tiếp và đạt được mức 2 con số, bên cạnh chính sách tài khóa và tiền tệ, chúng ta còn phải nâng cao năng suất lao động. Đây là bài toán dài hạn, không thể cải thiện chỉ trong một vài năm. Việc tăng năng suất cần bắt đầu từ cải tiến công nghệ đến cải cách giáo dục, đào tạo kỹ năng nghề cho sinh viên, kỹ sư, lao động trẻ. 

“Chỉ khi năng suất lao động của Việt Nam tiệm cận các quốc gia tiên tiến trong khu vực, chúng ta mới có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng 2 con số một cách bền vững và tiến tới trở thành nước thu nhập cao”, ông Đức Anh nhận định. 

Với nền kinh tế vẫn phụ thuộc lớn vào khu vực FDI và xuất khẩu, bài toán đặt ra cho Việt Nam là phải song hành trên 3 trục, vừa thu hút hiệu quả dòng vốn FDI, duy trì đà tăng trưởng xuất khẩu, đồng thời nâng cấp năng lực nội tại của nền kinh tế. 

Nhìn bài học từ Trung Quốc, ông Nguyễn Thế Minh của Yuanta Việt Nam cho rằng Việt Nam cần xác định rõ hướng đi. Muốn phát triển bền vững, phải xây dựng được một nền kinh tế lõi riêng, tự chủ về công nghệ và năng lực sáng tạo. Khi nền tảng ấy đủ vững, Việt Nam mới có thể chuyển dần từ tăng trưởng theo chiều rộng sang chiều sâu, từ phụ thuộc sang chủ động trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Theo chuyên gia của Yuanta Việt Nam, điều mà Việt Nam đang thiếu là một nền kinh tế lõi hay một ngành kinh tế cơ bản có khả năng dẫn dắt và lan tỏa. Trước đây, Việt Nam phát triển dựa trên các hoạt động bên ngoài như xuất khẩu, bất động sản hay khai thác tài nguyên, nhưng chưa xây dựng được nền tảng sản xuất hay công nghệ có hàm lượng giá trị cao. 

Nếu xét về các ngành nghề kinh tế, bất động sản vẫn đang chiếm tỉ trọng quá lớn trong nền kinh tế Việt Nam. Tại thời điểm cuối tháng 10/2025, Việt Nam có 5 tỉ phú USD và “điểm tựa” của các tỉ phú phần lớn đều đến từ bất động sản hoặc hệ sinh thái bất động sản - tài chính - tiêu dùng. Hay dữ liệu từ Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cho thấy, tính đến ngày 30/9/2025, trên sàn HOSE có 50 doanh nghiệp có vốn hóa hơn 1 tỉ USD. Trong đó, dẫn đầu là các doanh nghiệp bất động sản và ngân hàng. Nếu nhìn sang thị trường phát triển, các tập đoàn chaebol Hàn Quốc như Samsung, SK, LG, Hyundai, Lotte... đóng góp phần lớn GDP của quốc gia này, đến từ nhiều lĩnh vực như công nghệ, sản xuất ô tô, năng lượng, điện tử hoặc bán lẻ. 

Việc xác lập mô hình tăng trưởng mới giai đoạn 2026-2030, với mục tiêu GDP bình quân khoảng 10%/năm, không chỉ là mục tiêu kỳ vọng mà còn là một thách thức lớn, đòi hỏi phải biến áp lực thành động lực phát triển. Để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng 2 con số, các động cơ then chốt như đất đai, tài nguyên, lao động, xuất khẩu, thị trường trong nước, đầu tư và năng suất tổng hợp (TFP) cần được kích hoạt đồng bộ trong khuôn khổ đổi mới sáng tạo với mũi nhọn chuyển đổi số, chuyển đổi  xanh...

Ảnh: shutterstock.com
Giai đoạn 2026-2030 Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng GDP 2 con số và hướng đến GDP bình quân đầu người khoảng 8.500 USD vào năm 2030. Ảnh: shutterstock.com

Theo Phó Giáo sư - Tiến sĩ Trần Hoàng Ngân, Đại biểu Quốc hội khóa XV, Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn từ việc dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu, nhất là trong các lĩnh vực điện tử, công nghệ bán dẫn, năng lượng tái tạo và logistics. “Nhưng nếu không sớm nâng cao năng lực nội sinh và cải thiện môi trường đầu tư, cơ hội ấy sẽ sớm trôi qua”, ông Hoàng Ngân nhận định.


Cập nhật tin Đầu Tư, Bất Động Sản, tin nhanh kinh tế chứng khoán, kiến thức Doanh Nghiệp tại Fanpage.

Tin cùng chuyên mục

Tin nổi bật trong ngày

Tin mới

Phần mềm quản lý sân pickeball, cầu lông, tenis, bóng đá, bóng bàn