Hủy
Kinh Doanh

Hạ tầng nâng tăng trưởng

Minh Đức Thứ Hai | 11/08/2025 08:00

 
 
Đầu tư công, hạ tầng và logistics dẫn dắt thành “vốn mồi” cho mô hình tăng trưởng mới.

Trong những năm gần đây, Việt Nam nổi bật là quốc gia chi tiêu cho phát triển cơ sở hạ tầng ở mức cao nhất khu vực và hàng đầu châu Á. Tỉ lệ chi tiêu này thường chiếm khoảng 5,7% GDP, cao hơn so với Thái Lan và Indonesia. Việt Nam đang vận hành 44 cảng biển với tổng công suất xử lý khoảng 500 triệu tấn/năm cùng 22 sân bay, bao gồm 12 sân bay quốc tế. Điều này cho thấy quyết tâm và ưu tiên của Chính phủ Việt Nam trong việc xây dựng nền tảng vật chất cho nền kinh tế. 

Tuy nhiên, dù mức đầu tư cao, chất lượng cơ sở hạ tầng của Việt Nam vẫn chưa theo kịp các nền kinh tế phát triển hơn trong khu vực. Theo các báo cáo về năng lực cạnh tranh toàn cầu, Việt Nam thường xếp sau các nước như Singapore, Malaysia, Thái Lan và Indonesia về chất lượng tổng thể của cơ sở hạ tầng, nhưng lại xếp trên Lào và Campuchia. 

Chẳng hạn, Việt Nam có hệ thống cao tốc đang phát triển nhanh, nhưng mật độ còn thấp so với mạng lưới đường cao tốc đã hoàn thiện và kết nối đồng bộ ở Thái Lan, Malaysia, vốn đã được xây dựng từ lâu. 

 

Mặc dù phát triển nhưng năng lực xếp dỡ và quy mô các cảng của Việt Nam còn hạn chế so với các trung tâm trung chuyển hàng đầu như Singapore hay Port Klang (Malaysia). Về sân bay, năng lực phục vụ đã quá tải tại các sân bay lớn (Nội Bài, Tân Sơn Nhất) trong khi dự án sân bay Long Thành đang trong giai đoạn triển khai. Chất lượng dịch vụ và quy mô sân bay cũng kém hơn đáng kể so với Thái Lan (sân bay Suvarnabhumi), Singapore (sân bay Changi) hay Malaysia (sân bay Kuala Lumpur), những nơi đã trở thành trung tâm trung chuyển quốc tế...

Giải nút thắt này về hạ tầng, cùng với làn sóng chuyển đổi số toàn diện, được ví như chìa khóa giúp cho Việt Nam củng cố vị thế trung tâm trong chuỗi sản xuất toàn cầu, vốn đang hình thành tại thị trường này. Ông Lê Anh Tuấn, Giám đốc Khối Đầu tư Dragon Capital, khẳng định rằng động lực tăng trưởng bền vững của Việt Nam đến từ nội lực. Chiến lược cốt lõi trong 5-10 năm tới là làm sao phát triển sức mạnh nội tại, tạo ra động lực tăng trưởng từ chính khu vực tư nhân, doanh nghiệp trong nước và tiêu dùng nội địa.

Nền tảng để hiện thực hóa sức mạnh nội tại này chính là một cuộc cách mạng về cơ sở hạ tầng, được hậu thuẫn bởi một hệ thống chính trị tinh gọn, đồng thuận và nhất quán. Tầm nhìn đến năm 2040 là một Việt Nam sở hữu mạng lưới hạ tầng đồng bộ hàng đầu khu vực, trọng tâm là dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam. Với tổng chiều dài 1.541 km và vốn đầu tư khoảng 67 tỉ USD, dự án được kỳ vọng sẽ tái cấu trúc toàn bộ nền kinh tế. Tổng giá trị đầu tư cho ngành xây dựng có thể tăng thêm khoảng 33 tỉ USD. 

Hạ tầng giao thông hiện đại không chỉ thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nước, mà còn làm tăng sức hấp dẫn của Việt Nam đối với nhà đầu tư nước ngoài. Những tuyến đường mới đã kết nối các vùng kinh tế trọng điểm, tạo ra các khu đô thị vệ tinh và các khu công nghiệp mới, làm thay đổi bản đồ kinh tế và dân cư của đất nước. “Việc tăng chi tiêu dự kiến thêm 1% GDP cho các dự án cơ sở hạ tầng được kỳ vọng sẽ giúp Việt Nam đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP mới cũng như hỗ trợ triển vọng tăng trưởng dài hạn và thu hút dòng vốn FDI vào Việt Nam”, ông Michael Kokalari, CFA, Giám đốc Phòng Phân tích Kinh tế vĩ mô và Nghiên cứu thị trường VinaCapital, nhận định.

 

Trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu đang tái cấu trúc mạnh mẽ do tác động của dịch bệnh, xung đột địa chính trị và chính sách thương mại của các nền kinh tế lớn, logistics đóng vai trò quyết định năng lực thích ứng và vươn xa của quốc gia. Bằng cách tối ưu hóa các tuyến vận chuyển hành khách và hàng hóa ở tốc độ 350 km/h, Việt Nam có thể nâng cao hiệu quả thương mại và củng cố hơn nữa vai trò là trung tâm logistics ở Đông Nam Á và mắt xích chiến lược trong chuỗi cung ứng khu vực châu Á - Thái Bình Dương. 

Tuy nhiên, thách thức của cuộc cách mạng hạ tầng này là việc huy động nguồn vốn lớn để đầu tư hạ tầng, đặc biệt thông qua trái phiếu chính phủ hoặc các khoản vay ODA, có thể làm gia tăng nhanh chóng nợ công. Mặc dù nợ công của Việt Nam hiện vẫn trong giới hạn an toàn (dưới 60% GDP), nhưng việc đầu tư ồ ạt mà thiếu hiệu quả có thể đẩy tỉ lệ này lên cao, gây áp lực trả nợ trong tương lai. Nếu các dự án hạ tầng không tạo ra đủ doanh thu hoặc giá trị kinh tế để bù đắp chi phí đầu tư, gánh nặng sẽ dồn lên ngân sách nhà nước. Điều này có thể dẫn đến việc phải cắt giảm chi tiêu cho các lĩnh vực quan trọng khác như y tế, giáo dục hoặc phải phát hành thêm nợ, tạo ra một vòng luẩn quẩn tài chính. 

Hiệu quả của đầu tư công thường giảm dần theo thời gian. Sau một giai đoạn bùng nổ, nếu không có các động lực tăng trưởng mới, nền kinh tế có thể rơi vào tình trạng tăng trưởng chậm lại, trong khi vẫn phải gánh vác khoản nợ từ các dự án đã đầu tư. 

Vì vậy, bản kiến nghị chính sách quý II/2025 của nhóm nghiên cứu thuộc Đại học Kinh tế Quốc Dân (NEU) cho rằng để có đủ nguồn lực tài chính cho các dự án đầu tư công quy mô lớn, Việt Nam cần thực hiện đồng thời nhiều giải pháp quyết liệt về tài khóa. Đó là cần thu hẹp đáng kể chi thường xuyên, quyết liệt tinh gọn bộ máy hành chính cồng kềnh, kém hiệu quả. Việc tiết kiệm được nguồn vốn lớn từ chi thường xuyên có thể được tái phân bổ cho đầu tư phát triển hạ tầng.

 “Khi thị trường vốn được nâng cấp cả về chiều sâu và chất lượng, dòng tiền sẽ được phân bổ hiệu quả hơn, tạo động lực đẩy nhanh các dự án hạ tầng lớn, đổi mới công nghệ và đặc biệt là tiếp sức cho khu vực tư nhân mở rộng đầu tư, phát triển quy mô”, đại diện Dragon Capital nhận định.


Cập nhật tin Đầu Tư, Bất Động Sản, tin nhanh kinh tế chứng khoán, kiến thức Doanh Nghiệp tại Fanpage.

Tin cùng chuyên mục

Tin nổi bật trong ngày

Tin mới