Ông Atul Tandon, Tổng giám đốc Astrazeneca Việt Nam: “Hành tinh mạnh khỏe, con người an vui”

Trong hơn một thập kỷ đầu của sự nghiệp, phần lớn thời gian của ông Atul Tandon đều tập trung vào các bài toán hoạch định chiến lược thị trường, tối ưu hóa chuỗi cung ứng và tạo ra các giá trị bền vững cho nhiều doanh nghiệp khác nhau. Có một lần ông tham gia dự án cải thiện sinh kế bền vững cho nông dân và cột mốc này đã thay đổi góc nhìn của ông, khơi dậy niềm tin rằng để một doanh nghiệp phát triển bền vững thì không chỉ theo đuổi mục tiêu lợi nhuận mà còn phải tạo giá trị cho cộng đồng. Niềm tin này dẫn ông đến AstraZeneca, tập đoàn dược phẩm sinh học toàn cầu, với mong muốn chuyển đổi thực hành y khoa cho con người, xã hội và hành tinh.
Chia sẻ với NCĐT, ông Atul cho biết trong 13 năm gắn bó với AstraZeneca, ông đã chuyển qua 3 quốc gia: Ấn Độ, Singapore và hiện tại là Việt Nam. Giờ đây, với vai trò Tổng Giám đốc AstraZeneca Việt Nam, ông tiếp tục theo đuổi sứ mệnh chuyển đổi y tế toàn diện, hướng tới một tương lai “win-win-win” cho doanh nghiệp, cộng đồng và hành tinh.
Nhưng hiện thực hóa lý tưởng trên tại Việt Nam là một hành trình không đơn giản.
Mảnh ghép trong bức tranh phân mảnh
Việt Nam là quốc gia với hơn 100 triệu dân mà trong đó có tới 14,2 triệu người từ 60 tuổi trở lên, tính tới tháng 1/2025 và được dự báo sẽ gần chạm 18 triệu người vào năm 2030. Một nền dân số già hóa đồng nghĩa hệ thống y tế đang chịu sức ép ngày càng lớn cả về chi phí chăm sóc sức khỏe lẫn khả năng duy trì năng suất lao động của người dân trong thời gian dài hơn.
Đặc biệt, gánh nặng bệnh tật hiện nay chủ yếu tập trung vào các bệnh không lây nhiễm như tim mạch, đái tháo đường và ung thư, với tỉ lệ gia tăng nhanh chóng, chiếm tới 73% tổng số ca tử vong mỗi năm. Trong khi đó, hệ thống y tế công vẫn thiếu hụt nhân lực nghiêm trọng. Đơn cử, vào năm 2022, cả nước thiếu 23.866 nhân viên y tế dự phòng, trong đó thiếu gần 8.000 bác sĩ - những khoảng trống vốn không thể được lấp đầy trong một sớm một chiều.
![]() |
Trước thực tế này, việc ưu tiên đầu tư và phát triển hệ thống chăm sóc sức khỏe trở thành vấn đề cấp thiết. Theo đó, ông Atul Tandon cho rằng một trong những chìa khóa để mở rộng tiếp cận y tế tại Việt Nam nằm ở việc tăng tốc chuyển đổi số trong ngành y tế: “Việc đầu tư có trọng tâm vào năng lực kỹ thuật số sẽ là chìa khóa mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ y tế, đặc biệt cho các nhóm dân số chưa được phục vụ. Những công cụ như phần mềm khảo sát, chăm sóc từ xa, hồ sơ sức khỏe điện tử hay ứng dụng giáo dục sức khỏe không chỉ giúp nâng cao hiệu quả chẩn đoán - điều trị, mà còn thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, giảm tải cho bệnh viện, đồng thời tăng cường khả năng quản lý bệnh và chia sẻ thông tin kịp thời giữa bệnh nhân với cơ sở y tế”.
Một ví dụ tiêu biểu cho ứng dụng công nghệ trong y tế là việc sử dụng trí tuệ nhân tạo (A.I) trong chẩn đoán hình ảnh. Tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM, A.I đã giúp phát hiện bổ sung 20% số ca suy tim và hỗ trợ chẩn đoán chính xác 120 trường hợp siêu âm tim. Ông Atul Tandon nhấn mạnh, mỗi nhóm bệnh lý cần có một mô hình tiếp cận riêng, đòi hỏi giải pháp linh hoạt, cá nhân hóa và hiệu quả hơn trong tương lai.
Tuy nhiên, một bức tranh phân mảnh như bối cảnh ngành y tế Việt Nam hiện tại là vấn đề không một tổ chức đơn lẻ nào có thể giải quyết toàn diện. Do đó, hợp tác công - tư trở nên cần thiết, trong đó các tập đoàn đa quốc gia như AstraZeneca là một trong những mảnh ghép quan trọng. “Chính phủ Việt Nam đã có những cam kết mạnh mẽ và tầm nhìn dài hạn trong việc ưu tiên chăm sóc sức khỏe. Chúng tôi vinh dự khi được đồng hành cùng Bộ Y tế, các bộ ban ngành và các đối tác trong hành trình này, từ hợp tác nghiên cứu chính sách, thúc đẩy nghiên cứu lâm sàng cho đến đổi mới sáng tạo để nâng cao kết quả điều trị và thúc đẩy phòng ngừa bệnh tật nhằm tạo ra giải pháp bền vững hơn cho hệ thống y tế”, ông Atul Tandon nói.
Trong giai đoạn 2020-2030 AstraZeneca đã và dự kiến đầu tư khoảng 360 triệu USD vào Việt Nam, tập trung nâng cao năng lực y tế và mở rộng tiếp cận chăm sóc sức khỏe. Từ năm 2006, hơn 70 triệu USD được dành cho các nghiên cứu lâm sàng, mang lại cơ hội tiếp cận liệu pháp tiên tiến cho hàng ngàn bệnh nhân.
Bên cạnh đó, các dự án xã hội như “Sức khỏe Thanh thiếu niên” đã tiếp cận hơn 100.000 người trẻ để thúc đẩy lối sống lành mạnh từ sớm nhằm giảm tỉ lệ mắc bệnh không lây nhiễm, trong khi sáng kiến “CAREME - Yêu lấy mình” đã giúp sàng lọc bệnh thận cho hơn 200.000 người, phát hiện sớm hơn 10.000 ca, góp phần can thiệp kịp thời, giảm biến chứng và chi phí điều trị, qua đó giảm áp lực cho hệ thống y tế. Song, những nỗ lực đó mới chỉ chạm đến bề nổi.
![]() |
Sứ mệnh chuyển đổi y tế toàn diện
Thách thức lớn hơn không chỉ nằm ở việc giải quyết từng vấn đề y tế riêng lẻ, mà là làm sao để mỗi hành động hôm nay trở thành mắt xích trong một hệ sinh thái phát triển bền vững, nơi con người, xã hội và hành tinh cùng khỏe mạnh. Đó cũng chính là tinh thần cốt lõi của “chuyển đổi y tế toàn diện” mà AstraZeneca theo đuổi.
Để tạo nên cuộc chuyển đổi đó, AstraZeneca hiểu rằng hành trình phải bắt đầu từ bên trong, từ đội ngũ con người. Ông Atul Tandon nhấn mạnh: “Chúng tôi tin rằng trong một môi trường minh bạch, đạo đức và trao quyền, nhân viên sẽ trở nên sáng tạo hơn và trở thành động lực thúc đẩy đổi mới y tế và lan tỏa giá trị bền vững.”
Chính vì vậy, từ năm 2020-2024 AstraZeneca đã tiếp tục tăng quy mô đội ngũ tại Việt Nam từ 470 lên hơn 700 người. Họ là nguồn lực không chỉ triển khai chuyên môn mà còn là cầu nối với các đối tác trong việc đồng kiến tạo những giải pháp y tế dài hạn. Tinh thần “lấy con người làm gốc” cũng được cụ thể hóa qua văn phòng mới của Tập đoàn tại Hà Nội, được thiết kế đạt chuẩn LEED Gold về công trình xanh, tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường và hướng đến sự hài hòa giữa hiệu suất làm việc, sức khỏe nhân viên và tính bền vững dài lâu.
Tuy nhiên, con người và xã hội mới chỉ là 2 phần trong bức tranh toàn diện. Theo ông Atul Tandon, thách thức lớn hơn là thay đổi tư duy, phải nhận thức rõ mối liên hệ không thể tách rời giữa sức khỏe con người và sức khỏe hành tinh.
Ngành y tế, dù giữ vai trò tuyến đầu trong bảo vệ sức khỏe, cũng là một nguồn phát thải đáng kể, chiếm gần 5% tổng lượng phát thải toàn cầu, cao gần gấp đôi so với ngành hàng không (khoảng 2,6%). Chẳng hạn như việc điều trị bệnh thận mạn tính (CKD) đã tiêu tốn hơn 169 tỉ lít nước và tạo ra khoảng 1 tỉ kg chất thải mỗi năm, cho thấy cái giá môi trường không nhỏ của hệ thống chăm sóc y tế hiện đại.
Ở chiều ngược lại, sự suy thoái môi trường và biến đổi khí hậu đang làm trầm trọng thêm gánh nặng bệnh tật. “Môi trường bị tàn phá, không khí và nguồn nước ô nhiễm, khí hậu trở nên cực đoan là những yếu tố góp phần làm các bệnh không lây nhiễm tăng nhanh. Điều này không chỉ khiến hệ thống y tế chịu thêm nhiều áp lực, gia tăng lượng phát thải từ ngành chăm sóc sức khỏe, mà còn làm chi phí điều trị leo thang, ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ y tế. Do đó, không thể nói về câu chuyện sức khỏe mà không nghĩ đến khí hậu”, ông Atul Tandon nhấn mạnh.
Ông Atul Tandon cho rằng chỉ khi đặt sức khỏe của con người trong mối tương quan sâu sắc với xã hội và hành tinh, các hành động mới trở nên cụ thể, khoa học mới thực sự phát huy tiềm năng. Và chỉ khi các bên cùng chung tay thúc đẩy tương lai xanh, phát triển nền y tế theo hướng bền vững và lan tỏa các sáng kiến phòng ngừa sớm bệnh tật, chúng ta mới có thể hiện thực hóa một tương lai khỏe mạnh cho tất cả.
Cập nhật tin Đầu Tư, Bất Động Sản, tin nhanh kinh tế chứng khoán, kiến thức Doanh Nghiệp tại Fanpage.
Theo dõi Nhịp Cầu Đầu Tư

Tin cùng chuyên mục
-
Công Sang
-
Thanh Hằng