Khí hậu nóng lên, thời trang chịu lạnh

Thời trang là một trong những ngành dễ tổn thương nhất bởi thời tiết cực đoan, từ nguyên liệu đầu vào đến mô hình sản xuất và thói quen tiêu dùng. Ảnh: TL.
Khi khí hậu biến đổi nhanh hơn các bộ sưu tập ra mắt, ngành thời trang, cả toàn cầu lẫn tại Việt Nam, đứng trước những rủi ro không còn mang tính dự báo mà đã trở thành thực tế.
Biến đổi khí hậu giờ không chỉ là đề tài trên các sàn diễn bền vững. Trong một báo cáo gần đây, Tổ chức Sáng kiến Báo cáo Toàn cầu (GRI) ghi nhận ngành thời trang đang chiếm khoảng 2–8% tổng lượng phát thải carbon toàn cầu. Nhưng bên cạnh vai trò trong phát thải, thời trang cũng là một trong những ngành dễ tổn thương nhất bởi thời tiết cực đoan, từ nguyên liệu đầu vào đến mô hình sản xuất và thói quen tiêu dùng.
Bài toán nguyên liệu đang trở nên phức tạp hơn khi thời tiết thất thường tại các quốc gia sản xuất sợi chủ lực như Ấn Độ, Trung Quốc hay Mông Cổ khiến mùa vụ bị ảnh hưởng. Các loại sợi tự nhiên như cotton, len, cashmere đều có tính mùa vụ cao và phụ thuộc vào điều kiện nhiệt độ ổn định. Khi những điều kiện đó không còn đảm bảo, khả năng cung ứng lẫn chi phí đầu vào đều biến động.
![]() |
Bài toán này lan tới cả ngành dệt may Việt Nam, vốn có kim ngạch xuất khẩu hơn 40 tỉ USD mỗi năm. Dù sản xuất mạnh, Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu. Biến động về thời tiết tại quốc gia khác đồng nghĩa với chi phí đầu vào tăng, thời gian giao hàng kéo dài và nguy cơ chậm tiến độ sản xuất cho các đơn hàng xuất khẩu lớn.
Không chỉ chuỗi cung ứng, hành vi tiêu dùng cũng bắt đầu thay đổi theo thời tiết. Mùa đông ngắn hơn dẫn đến sức tiêu thụ của các sản phẩm thời trang mùa lạnh như áo khoác, khăn len… giảm xuống. Mùa hè kéo dài, kết hợp với nhiệt độ cao hơn mức trung bình, lại làm tăng nhu cầu về quần áo nhẹ, thoáng mát. Xu hướng thời trang theo mùa, vốn là nền tảng vận hành của ngành, nay buộc phải tính lại.
Ở phía sản xuất, điều kiện lao động trong nhà máy cũng chịu tác động từ khí hậu. Tại nhiều khu vực phía Nam, nắng nóng kéo dài có thể làm giảm năng suất lao động hoặc khiến chi phí làm mát tăng cao. Những yếu tố này không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất, mà còn đặt ra bài toán chi phí cho doanh nghiệp dệt may.
Một số tập đoàn thời trang lớn như Kering, Adidas hay Hermès đã bắt đầu tích hợp rủi ro khí hậu vào chiến lược vận hành. Báo cáo của McKinsey năm 2022 cho thấy 90% lãnh đạo ngành thời trang toàn cầu thừa nhận tác động ngày càng lớn của biến đổi khí hậu đến hoạt động sản xuất và phân phối. Tuy nhiên, hành động vẫn ở mức thận trọng.
![]() |
Tại Việt Nam, các doanh nghiệp dệt may cũng đang từng bước thích ứng. Theo ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas), trong những năm qua, dù khó khăn nhưng các doanh nghiệp vẫn đầu tư nhiều nhà máy mới nên giữ được tỉ trọng trong xuất khẩu. “Cùng với việc sử dụng sản phẩm tái chế, thân thiện môi trường như sợi gai, sợi tre…, ngành dệt may Việt Nam cũng sắp xếp mô hình cộng đồng doanh nghiệp, chuyển dịch nhanh nhà máy từ thành phố về vùng sâu, vùng xa”, ông nói.
Song nhìn chung, mức độ sẵn sàng vẫn còn hạn chế. Phần lớn doanh nghiệp mới dừng lại ở các giải pháp tình huống như tăng dự trữ nguyên liệu hoặc chuyển một phần đơn hàng sang khu vực khí hậu ổn định hơn. Trong khi đó, các thị trường xuất khẩu như EU đang yêu cầu ngày càng cao về minh bạch chuỗi cung ứng và báo cáo tác động môi trường.
Biến đổi khí hậu đang tác động đến nhiều khía cạnh của ngành thời trang, từ chuỗi cung ứng nguyên liệu đến hành vi tiêu dùng và mô hình sản xuất. Trong bối cảnh này, mức độ thích ứng của từng doanh nghiệp có thể tạo ra sự khác biệt về khả năng duy trì hoạt động và tiếp cận thị trường.
Có thể bạn quan tâm:
Cập nhật tin Đầu Tư, Bất Động Sản, tin nhanh kinh tế chứng khoán, kiến thức Doanh Nghiệp tại Fanpage.
Theo dõi Nhịp Cầu Đầu Tư
