Lời giải cho biến đổi khí hậu
_1694969.png)
Các mô hình khí hậu hiện nay phần lớn dựa trên giả định rằng CO2 là tác nhân chính thúc đẩy sự ấm lên toàn cầu. Ảnh: vov.vn
Khi nồng độ CO2 (tính theo ppm) tăng, nhiệt độ toàn cầu cũng tăng. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa rõ ngưỡng CO2 nào sẽ gây ra những tổn hại nghiêm trọng?”. Đây là câu hỏi tôi từng đặt ra cho 2 vị giáo sư tại một trường đại học quốc tế danh tiếng, dựa trên lý thuyết tiêu chuẩn về biến đổi khí hậu đang được giảng dạy. Thực ra câu hỏi này chỉ là bề nổi của một cuộc tranh luận sâu sắc hơn: Liệu CO2 có thực sự là nguyên nhân chính của biến đổi khí hậu hay chỉ là hệ quả của những yếu tố tự nhiên lớn hơn?
CO2: Nguyên nhân hay hệ quả?
Các mô hình khí hậu hiện nay phần lớn dựa trên giả định rằng CO2 là tác nhân chính thúc đẩy sự ấm lên toàn cầu. Điều này dẫn đến hiện tượng “thiên kiến xác nhận”, khiến các giả thuyết thay thế bị gạt ra ngoài lề. Phát biểu Corbyn là ví dụ tiêu biểu. Ông gợi ý rằng “CO2 có thể là hệ quả của biến đổi khí hậu, chứ không phải là nguyên nhân chính”. Luận điểm này nhấn mạnh vai trò của hoạt động mặt trời như chu kỳ vết đen hoặc bức xạ vũ trụ trong việc thúc đẩy biến đổi khí hậu.
Mặc dù phát biểu này bị giới khoa học khí hậu bác bỏ, nhưng nó phản ánh một thực tế, như nhiều nhà khoa học có chính kiến từng chia sẻ: Không phải ai cũng tin tưởng tuyệt đối vào tính trung lập của khoa học khí hậu chính thống, vốn bị chi phối bởi nguồn tài trợ, chính sách và ưu tiên của khối công nghiệp toàn cầu. Đặc biệt, ở các quốc gia đang phát triển, việc tiếp cận dữ liệu vệ tinh, mô hình khí hậu hoặc cơ sở hạ tầng tính toán tiên tiến vẫn là một đặc quyền, không phải là phổ quát.
Sự bất cân xứng này không chỉ tạo ra khoảng cách trong hiểu biết khoa học mà còn dẫn đến mất lòng tin vào chính sách khí hậu toàn cầu. Điều này càng trầm trọng khi các tổ chức tư vấn chính sách, tập đoàn dầu khí và cả chính phủ các nước lớn đồng thời tài trợ cho cả nghiên cứu khoa học lẫn chiến dịch truyền thông dẫn đến hiện tượng “khí hậu học phục vụ lợi ích”.
![]() |
Tranh luận về biến đổi khí hậu không chỉ là vấn đề khoa học, mà còn là câu hỏi về trách nhiệm, đạo đức và công lý. Chúng ta cần một cách tiếp cận trung thực hơn, cởi mở hơn với các giả thuyết và công bằng hơn trong việc phân phối thông tin và nguồn lực. Chỉ khi đó, con người mới có cơ hội tìm ra giải pháp thực sự cho vấn đề hiện sinh cấp bách.
Cái giá của sự thiên lệch
Ngay cả khi thế giới đạt mục tiêu net zero (phát thải ròng bằng 0) với chi phí hàng chục ngàn tỉ USD, trái đất vẫn có thể tiếp tục ấm lên. Nguyên nhân nằm ở lượng CO2 đã tích lũy trong khí quyển, vốn có khả năng giữ nhiệt kéo dài hàng trăm, thậm chí hàng ngàn năm. Do đó, dù con người thành công trong việc giới hạn mức tăng nhiệt độ dưới 2°C so với thời kỳ tiền công nghiệp, nhiệt độ trung bình toàn cầu vẫn có thể tăng kéo dài trong nhiều thế kỷ.
Có lẽ đó là lý do khiến các chính sách hiện tại có vẻ như tập trung quá mức vào mục tiêu net zero với trọng tâm giảm CO2 nhưng đôi khi điều đó làm che mờ những ưu tiên khác như xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế bền vững hay chuyển đổi sang nền kinh tế tuần hoàn (zero waste). Trong khi net zero đòi hỏi đầu tư toàn cầu khổng lồ lên đến hàng trăm ngàn tỉ USD, kinh tế tuần hoàn lại mang tiềm năng tiết kiệm chi phí, tạo việc làm và thúc đẩy công bằng xã hội với nguồn lực tài chính khiêm tốn hơn. Sự thiên lệch này đặt ra một câu hỏi: Liệu chúng ta có đang đánh cược tương lai của nhân loại vào một chỉ số CO2 đầy tranh cãi, trong khi các giải pháp toàn diện hơn bị xem nhẹ?
Hiện tại, đầu tư vào kinh tế tuần hoàn vẫn còn khiêm tốn, với khoảng 1,1 tỉ USD được ghi nhận trong các giao dịch công khai toàn cầu năm 2022, tập trung vào tái chế và quản lý chất thải (BDO LLP, 2023). Trong khi đó, kinh tế tuần hoàn mang lại lợi ích kinh tế đáng kể khi có thể tiết kiệm 4.500 tỉ USD vào năm 2030 và tạo hàng triệu việc làm, đặc biệt ở các nước đang phát triển (Ellen MacArthur Foundation, 2019). Tại Việt Nam, kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp và công nghiệp có thể giảm 15% cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP vào năm 2030, đồng thời cải thiện sinh kế cho hàng triệu nông dân và lao động nghèo (Quyết định 687/QĐ-TTg 2022).
![]() |
World Bank (2022) ước tính cần 368 tỉ USD từ nay đến năm 2040 để đạt net zero, tương đương 6,8% GDP của Việt Nam mỗi năm, trong đó 30% dành cho khử carbon. Tuy nhiên, khu vực công chỉ có thể đáp ứng khoảng 1/3 nguồn lực, còn lại phụ thuộc vào tài chính tư nhân và thị trường carbon. Ngược lại, các giải pháp kinh tế tuần hoàn, như tái chế chất thải làm nguyên liệu thứ cấp hay phát triển nông nghiệp sinh thái, không chỉ giảm phát thải mà còn tạo việc làm và tăng thu nhập cho người nghèo.
Sự tập trung vào CO2 còn có nguy cơ bỏ qua các yếu tố khác như bảo vệ đa dạng sinh học, quản lý tài nguyên nước hay giảm bất bình đẳng xã hội. Chẳng hạn, trồng rừng để bù đắp carbon, một giải pháp net zero phổ biến, có thể gây mất đa dạng sinh học hoặc xung đột đất đai với cộng đồng địa phương nếu không được quản lý tốt. Trong khi đó, kinh tế tuần hoàn, với các mô hình như “xanh hóa” ngành dệt may hay tái chế tấm pin năng lượng mặt trời, không chỉ giảm chất thải mà còn bảo tồn tài nguyên và văn hóa địa phương.
Các khu công nghiệp xanh ở Thái Lan là minh chứng, nơi kinh tế tuần hoàn giúp giảm 20% chi phí năng lượng và tạo ra hàng ngàn việc làm. Hơn nữa, chi phí khổng lồ cho net zero có thể làm trầm trọng hóa bất bình đẳng toàn cầu, khi các quốc gia đang phát triển như Việt Nam phải gánh vác gánh nặng tài chính mà không nhận đủ hỗ trợ từ các nước phát triển. “Phát triển mà không tăng trưởng” thông lượng tài nguyên vật chất là tuần hoàn hóa; con đường tất yếu để đạt được thịnh vượng kinh tế, công bằng xã hội và bền vững môi trường.
Cập nhật tin Đầu Tư, Bất Động Sản, tin nhanh kinh tế chứng khoán, kiến thức Doanh Nghiệp tại Fanpage.
Theo dõi Nhịp Cầu Đầu Tư

Tin cùng chuyên mục
Tin nổi bật trong ngày
Tin mới
-
Quỳnh Như