Đông Nam Á đẩy lùi hàng nhập khẩu giá rẻ từ Trung Quốc
Đối với các chính phủ Đông Nam Á, làn sóng sản phẩm Trung Quốc giá rẻ đang gây ra tình thế tiến thoái lưỡng nan. Ảnh: Daniel Garcia.
Khi một nhà máy dệt ở Bandung, Tây Java, bắt đầu sa thải vào tháng 1, anh Kurniadi Eka Mulyana, 26 tuổi, không khỏi lo lắng vì 2 năm trước anh từng mất việc tại một công ty sản xuất dệt may khác.
Trong tháng 3, anh Mulyana đã bị sa thải. Quản lý nhà máy nói với anh rằng doanh số và doanh thu của công ty đã giảm kể từ khi TikTok Shop ra mắt tại Indonesia vào năm 2021, bán hàng hóa giá rẻ có nguồn gốc từ Trung Quốc.
Khoảng 49.000 công nhân trong ngành dệt may và giày dép đã bị sa thải trong năm nay vì các nhà máy ở tỉnh Banten, Tây Java và Trung Java của Indonesia đóng cửa.
Để đáp lại lời kêu gọi của các nhà sản xuất hàng dệt may, Bộ trưởng Thương mại Indonesia Zulkifli Hasan vào tháng 6 cho biết chính phủ sẽ xem xét áp thuế lên tới 200% đối với vải nhập khẩu, có khả năng tăng gấp đôi mức thuế hiện tại. Ông chỉ ra rằng các loại thuế mới cũng đang được xem xét để giải quyết tình trạng nhập khẩu gốm sứ, quần áo, giày dép, mỹ phẩm và đồ điện tử tăng mạnh.
Các quốc gia Đông Nam Á khác cũng đang có động thái nâng cao rào cản đối với hàng hóa giá rẻ của Trung Quốc, đặc biệt là những mặt hàng đến thông qua các nền tảng thương mại điện tử.
Vào tháng 1, Malaysia đã áp dụng thuế bán hàng 10% đối với hàng hóa nhập khẩu mua trực tuyến có giá dưới 500 ringgit (108 USD); trước đây, những mặt hàng như vậy được miễn thuế bán hàng và thuế nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt áp dụng cho các sản phẩm đắt tiền hơn. Thái Lan đã làm theo trong tháng này bằng cách tăng thuế giá trị gia tăng (VAT) 7% đối với các giao dịch mua hàng có giá trị dưới 1.500 baht (42 USD).
Đối với các chính phủ Đông Nam Á, làn sóng sản phẩm Trung Quốc giá rẻ đang gây ra tình thế tiến thoái lưỡng nan. Trong khi các nhà bán lẻ và nhà sản xuất trong nước đang tìm cách thoát cạnh tranh không lành mạnh, giới chức lại mong muốn các công ty Trung Quốc đầu tư vào sản xuất trong nước, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ cao.
Việc cân bằng các ưu tiên này trở nên khó khăn hơn khi tình trạng suy thoái kinh tế lan rộng trong Trung Quốc, làm giảm nhu cầu xuất khẩu của Đông Nam Á và khiến các công ty Trung Quốc phải bán tháo hàng tồn kho với giá cực thấp. Điều này đang làm gia tăng sự mất cân bằng thương mại của Đông Nam Á với Trung Quốc, thúc đẩy thêm các lời kêu gọi chính phủ hành động đối với hàng nhập khẩu.
Năm ngoái, Đông Nam Á và các thị trường mới nổi khác ở châu Á đã tiếp nhận khoảng 1/3 sản lượng xuất khẩu của Trung Quốc, mặc dù những quốc gia này chỉ chiếm 1/10 tổng sản phẩm quốc nội toàn cầu, theo Goldman Sachs.
Ở một mức độ nào đó, sự mất cân bằng thương mại ngày càng gia tăng là hệ quả của việc các công ty Trung Quốc và các đối tác nước ngoài chuyển một số hoạt động sản xuất và lắp ráp từ Trung Quốc sang Đông Nam Á do căng thẳng thương mại với phương Tây và các yếu tố khác.
Trung Quốc là nguồn vốn nước ngoài chính cho các quốc gia Đông Nam Á. Ảnh: Nikkei Asia. |
Phong trào chuỗi cung ứng này đã làm giảm nhu cầu của Trung Quốc đối với nguyên liệu thô và hàng hóa trung gian từ Đông Nam Á trong khi tăng lưu lượng các sản phẩm đó theo hướng ngược lại. Trong nhiều trường hợp, các sản phẩm cuối cùng được chuyển đến các thị trường phương Tây. Thật vậy, xuất khẩu của Đông Nam Á sang Mỹ đã vượt quá xuất khẩu sang Trung Quốc trong quý I-III hơn 10 tỉ USD.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế HSBC, đối với Việt Nam nói riêng và ASEAN nói chung, sự thay đổi này về cơ bản mang lại lợi ích.
"Với sự trợ giúp của hoạt động thương mại với Trung Quốc, ảnh hưởng của ASEAN đối với thương mại toàn cầu cũng đang ngày càng sâu sắc hơn", đơn vị này cho biết, đồng thời thừa nhận rằng "từ mức khoảng 80 tỉ USD trong thời kỳ đại dịch, thâm hụt thương mại của ASEAN với Trung Quốc đại lục hiện đã tăng vọt lên gần 115 tỉ USD".
Các nhà cung cấp vật liệu và sản phẩm dùng trong xây dựng, bao gồm thép, máy móc và hóa chất, đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi sự sụp đổ của ngành phát triển bất động sản Trung Quốc.
"Rất nhiều việc làm của Trung Quốc bị ràng buộc trong các ngành công nghiệp này", ông Jordan của Rhodium cho biết. Nếu các nhà sản xuất này không thể xuất khẩu sản lượng dư thừa của họ, ông nói thêm, "Điều đó sẽ dẫn đến thua lỗ cho các công ty vốn đã không có lãi, và điều đó sẽ dẫn đến tình trạng thất nghiệp".
Để ngăn chặn điều này xảy ra và ảnh hưởng đến vị thế của chính họ, chính quyền địa phương ở Trung Quốc đang nỗ lực hết sức để hỗ trợ các nhà xuất khẩu và duy trì tăng trưởng kinh tế địa phương. Nhưng các công ty Đông Nam Á cảm thấy như họ đang phải chịu chi phí để duy trì hoạt động của các nhà máy Trung Quốc.
Năm ngoái, hơn 1.300 nhà máy đóng cửa tại Thái Lan, tăng 60% so với năm trước. Theo Bộ Công nghiệp Thái Lan, từ tháng 1 đến tháng 5, thêm 500 nhà máy đóng cửa, khiến 15.342 người mất việc.
Thép là ngành công nghiệp bị ảnh hưởng nhiều nhất của Thái Lan. Dưới sự tấn công của sản lượng giảm giá của Trung Quốc, sản lượng trong nước của Thái Lan đã giảm 497.000 tấn, tương đương 7%, vào năm ngoái.
Theo tính toán của Trung tâm Tình báo Kinh tế thuộc Ngân hàng Thương mại Siam, cứ 100.000 tấn thép bị mất của Thái Lan sẽ làm giảm 0,2% GDP của nước này. Ông Wirote Rotewatanachai, Chủ tịch Viện Sắt thép Thái Lan, cho biết sự sụp đổ của hoạt động sản xuất thép trong nước sẽ gây ra rủi ro cho an ninh quốc gia trong thời điểm xảy ra xung đột địa chính trị.
Có thể bạn quan tâm:
Lao động trung niên Nhật Bản đối mặt thực tế khắc nghiệt
Nguồn Nikkei Asia
Cập nhật tin Đầu Tư, Bất Động Sản, tin nhanh kinh tế chứng khoán, kiến thức Doanh Nghiệp tại Fanpage.
Theo dõi Nhịp Cầu Đầu Tư