Hủy

Việt Nam ở đâu trên thị trường tiềm năng và mới nổi?

Thứ Tư | 18/06/2014 21:02

Sau khủng hoảng, dòng vốn đầu tư quốc tế đã “nhòm ngó” các thị trường mới nổi và tiềm năng, trong đó Việt Nam là một địa chỉ được chú ý.
 

Dòng vốn đang quay trởlại

Giai đoạn 2000 - 2007, trước khủng hoảng tài chính 2008 - 2009,dòng vốn đầu tư (FDI và FPI) vào các thị trường mới nổi và tiềm năng tăng liên tục với mức tăng mạnhhơn nhiều so với dòng vốn vào thị trường phát triển. Cụ thể, lượng vốn vào các nước mới nổi và tiềm năng lập kỷ lục vào năm 2007, đạt 834 tỷ USD và gấp 4,3 lần lượng vốn vào năm 2000. Trong khi đó,dòng vốn vào thị trường phát triển chỉ tăng 24% trong giai đoạn 2000 - 2007.

Giai đoạn 2010 - 2013, sau khủng hoảng tài chính 2008 - 2009, dòngvốn đầu tư vào các thị trường mới nổi và tiềm năng mặc dù bị sụt giảm trong năm 2011 và 2013, songxu hướng chung vẫn là hồi phục (+25% so với năm 2009). Ngược lại, dòng vốn vào thị trường pháttriển không có chuyển biến nào đáng kể so với thời điểm năm 2009.

Tháng 5/2013, lần đầu tiên Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tuyên bốthu hẹp gói nới lỏng định lượng QE3, trong khi dòng vốn FDI không bị ảnh hưởng nhiều thì dòng vốnFPI bị tác động tiêu cực. Các NĐT ồ ạt rút vốn khiến lượng vốn FPI vào thị trường mới nổi giảm chỉcòn 76 tỷ USD trong năm 2013 (-37% so với năm 2012).

Tính chung cả vốn FDI và FPI, lượng vốn đầu tư năm 2013 vào thịtrường mới nổi đạt khoảng 693 tỷ USD (giảm 5,6% so với năm 2012). Đối với thị trường tiềm năng,lượng vốn đầu tư không thay đổi nhiều so với năm 2013, đạt 116 tỷ USD, điều này cho thấy cú sốc từviệc thu hẹp gói QE3 gây tổn thương cho các thị trường mới nổi nhiều hơn các thị trường tiềm năng.

Mặc dù trong năm 2014, việc thu hẹp gói QE3 vẫn tiếp diễnnhưng sẽ được tiến hành một cách từ từ và có lộ trình rõ ràng hơn trước. Do đó, cú sốc đã xảy ravào giữa năm 2013 khó có thể lặp lại. Theo dự báo của IIF, dòng vốn vào thị trường mới nổi kỳ vọngsẽ có sự hồi phục tích cực trong năm 2014, đặc biệt là vốn đầu tư gián tiếp, trong khi vốn đầu tưtrực tiếp duy trì ổn định.

Dòng vốn đầu tư gián tiếp có mối quan hệ cùng chiều đối với chỉ sốchứng khoán thị trường mới nổi và tiềm năng và có mối quan hệ ngược chiều với tỷ suất sinh lợi củatrái phiếu. Với xu hướng rót vốn liên tục giai đoạn 2000 - 2007, chỉ số chứng khoán của thị trườngmới nổi và tiềm năng tăng trưởng mạnh, lập kỷ lục vào năm 2007, tương ứng với kỷ lục của vốn đầu tưgián tiếp. Sau khủng hoảng tài chính 2008 - 2009, vốn đầu tư vào thị trường mới nổi và tiềm năngphục hồi hỗ trợ cho sự tăng trưởng của TTCK các nền kinh tế này.

Cú sốc từ việc thu hẹp gói QE3 năm 2013 tạo ra sự phân hóa đối vớicác thị trường mới nổi và tiềm năng. Theo đó, những nền kinh tế có mức thâm hụt tài khoản vãng lailớn (Ấn Độ, Indonesia, Brazil…) chịu sự tổn thương lớn đến từ việc rút vốn của các NĐT nước ngoài,chỉ số chứng khoán của các thị trường này sụt giảm mạnh cùng với đó là sự mất giá của đồng nộitệ.

Việt Nam: "lợi nhuận tốt, rủi ro chấp nhậnđược"

Việt Nam được xếp vào nhóm các thị trường tiềm năng theo phân loạicủa MSCI dựa vào một số các tiêu chí. Do đó, để tìm ra lời giải cho câu hỏi "TTCK Việt Nam hấp dẫnnhư thế nào so với các thị trường khác", chúng tôi chọn lọc so sánh với một số các thị trường tiềm năng và mới nổi trong khu vực châu Á và trên thế giới, bao gồm Indonesia, Malaysia, Thailand,Philippines, Nigeria, Kazakhstan, Ả Rập Saudi, Egypt, Argentina, Pakistan.

Xét về quy mô nền kinh tế và TTCK, Việt Nam vẫn khá nhỏ bé so vớihầu hết các nước trong danh sách so sánh. Tuy nhiên, Việt Nam thể hiện sự tăng trưởng đều đặn đốivới các chỉ tiêu GDP, quy mô vốn hóa cũng như thanh khoản trên sàn giao dịch chính trong ba năm trởlại đây.

Điểm nổi bật của Việt Nam so với các thị trường kể trên là chỉ sốđịnh giá P/E (sàn giao dịch chính) thấp nhất trong suốt 3 năm qua trong điều kiện rủi ro vỡ nợ quốcgia của Việt Nam được các NĐT quốc tế đánh giá ngày càng khả quan hơn. Bằng chứng là giá CDS (hợpđồng bảo hiểm rủi ro vỡ nợ) của trái phiếu chính phủ Việt Nam kỳ hạn 2 năm từ đầu năm 2014 đến nayđã giảm 42,11% bất kể sự kiện "căng thẳng biển Đông" với Trung Quốc xảy ra vào đầu tháng 5 vừaqua.

Bên cạnh đó, VN-Index của Việt Nam có mức sinh lời đứng ở vị tríthứ hai trong quý I vừa qua, chỉ sau Case của Ai cập, trong khi chỉ số rủi ro - dựa trên biến độngIndex 200 ngày của VN-Index (13,8%) thấp hơn khá nhiều so với Case (21,8%). Những nỗ lực táicấu trúc nền kinh tế và giữ ổn định các chính sách tài chính tiền tệ của Việt Nam đã phần nào đượcphản ánh vào sự ổn định của thị trường. Trong 2 năm gần đây, chỉ số lạm phát cũng như biến động tỷgiá được giữ ở mức ổn định. Sau Ả Rập Saudi, đồng Việt Nam có mức biến động thấp nhất từ năm 2012đến nay.

Một yếu tố khác không kém quan trọng là chỉ tiêu thanh khoản (% giátrị giao dịch/vốn hóa thị trường) của Việt Nam đã có một sự cải thiện quan trọng. Tính đến hết 5tháng, chỉ số này của VN-Index là 1,8%, tăng đến 69% so với năm 2013, chứng tỏ TTCK Việt Nam đãđược dòng vốn (trong nước và cả nước ngoài) quan tâm hơn rất nhiều. Con số tăng trưởng này cũng chỉthua kém Case của Ai cập với sự bùng nổ giao dịch trong các tháng đầu năm nay.

Điểm cộng cần phải nhắc đến đối với thị trường Việt Nam là triểnvọng tăng trưởng của nền kinh tế. Với cơ cấu dân số trẻ, tốc độ tăng trưởng GDP ổn định và cảithiện qua các năm, Việt Nam đang trong quá trình tái cấu trúc nền kinh tế để đón nhận các cơ hộimới từ các hợp đồng thương mại tự do TPP, FTA Việt Nam-EU. Lãi suất được điều chỉnh giảm liên tụcđể kích thích các lĩnh vực sản xuất và thuế thu nhập DN giảm về 22% từ 25% là những hỗ trợ thiếtthực mà Chính phủ đã thực hiện. Cần nói thêm, 22% là mức thuế thu nhập DN thấp nhất so với các quốcgia trong danh sách trên. Các NĐT trên TTCK sẽ gián tiếp được lợi thông qua triển vọng lợi nhuậntốt hơn của các DN mà họ đầu tư.

Mặc dù tỷ lệ nợ công và nợ xấu của Việt Nam đang ở mức cao và quanngại tăng trưởng chậm lại trong quá trình tái cấu trúc nền kinh tế sẽ ảnh hưởng đến sự hưng phấncủa dòng vốn đầu tư, chúng tôi cho rằng, đây là giai đoạn bước ngoặt cần thiết để nền kinh tế điđúng hướng và hiệu quả hơn. Chúng tôi kỳ vọng việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng - xử lý nợ xấu,tái cấu trúc DNNN - góp phần giảm nợ công sẽ dần dần cho những kết quả rõ hơn trong vòng 1 năm tới.Khi đó, quyết định đầu tư trong giai đoạn bản lề hiện nay sẽ có những lợi thế nhất định. Quan điểm"lợi nhuận cao, rủi ro cao" khi đầu tư vào thị trường tiềm năng nói chung, theo chúng tôi, tạm thờikhông phù hợp đối với thị trường Việt Nam hiện tại, mà nên là "lợi nhuận tốt, rủi ro chấp nhậnđược".

Nguồn Đầu tư Chứng khoán


Cập nhật tin Đầu Tư, Bất Động Sản, tin nhanh kinh tế chứng khoán, kiến thức Doanh Nghiệp tại Fanpage.

Tin cùng chuyên mục

Tin nổi bật trong ngày

Tin mới